Ngô Tùng Châu (còn gọi là Ngô Tòng Chu) sinh năm Nhâm Thân 1752, thân phụ là Ngô Tùng Trang, chánh quán làng Thái Định, phủ Phù Ly (nay là thôn Thái Thuận, xã Cát Tài, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định). Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, Ngô Tùng Trang giữ chức Thư lại phủ Phù Ly. Năm 1764 phong chức Tri điền tuấn sự, được chúa Nguyễn điều vào huyện Gò Công, tỉnh Gia Định (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), mang theo 100 dân đinh vào khai khẩn ruộng hoang quy dân lập ấp(2). Tháng 7 năm đó Ngô Tùng Trang lãnh sứ mạng vào Nam cùng với dân đinh và đưa con trai là Ngô Tùng Châu cùng đi để được gần gũi cha và dễ bề dạy bảo.
Ở Gia Định, Ngô Tùng Châu được cha cho đi học. Ông được theo học thầy Võ Trường Toản – một nhà nho ẩn dật, nổi tiếng học rộng, đức hạnh hơn người. Nhà giáo Võ Trường Toản có đến mấy trăm học trò, trong đó Ngô Tùng Châu là môn đệ xuất sắc nhất. Trong một văn bia viết về tiểu sử của thầy Võ Trường Toản do đại thần triều Nguyễn là Phan Thanh Giản soạn năm 1867 có đoạn: …“Xảy hồi loạn Tây Sơn, Tiên sinh ở ẩn mở trường dạy học, thường học trò đến mấy trăm, Ngô Tùng Châu là môn sinh cao đệ nhất, thứ đến là các ông Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm, Ngô Nhơn Tịnh”… Học trò ông, ngoài những bậc nhân tài lập nên công nghiệp lớn, còn có những nho sĩ tiết tháo như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt…
Năm 1770, Ngô Tùng Châu gặp gỡ và kết nghĩa anh em với Võ Tánh, một hào kiệt đất Gò Công. Năm 1772, Ngô Tùng Châu cưới bà Võ Thị Lội, em gái Võ Tánh làm vợ. Hôn lễ được tổ chức tại tư gia Võ Tánh ở xã Bảo Can, huyện Gò Công, tỉnh Gia Định.
Trở thành một Nho gia kiệt xuất, về sau Ngô Tùng Châu được Nguyễn Ánh tin dùng, năm 1788 cho giữ chức Chế cáo Viện Hàn lâm, năm 1789 giữ chức Điền tuấn sứ (quan trông coi việc khai khẩn, canh tác nông nghiệp, xác định điền thổ và quân lương).
Năm 1791, ở khoa Tân Hợi, khoa thi đầu tiên chúa Nguyễn Ánh cho tổ chức ở Nam Bộ, ông thi đậu thủ khoa. Sau đó ông được thăng làm Tham tri Bộ Lễ kiêm Phụ đạo Đông cung (thầy dạy học Đông cung hoàng tử Nguyễn Cảnh).
Năm 1799, sau khi đánh tan quân Tây Sơn tại thành Quy Nhơn, chúa Nguyễn Ánh cho đổi tên thành này là thành Bình Định và cử Ngô Tùng Châu cùng với Võ Tánh trấn giữ.
Tháng 2/1800, hai tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng mang quân từ Phú Xuân (Huế) vào bao vây và tấn công thành Bình Định. Ngô Tùng Châu cùng Võ Tánh chỉ huy quân cố thủ giữ thành. Tháng 4/1800 và tháng 2/1981 Nguyễn Ánh hai lần mang quân tới giải vây thành Bình Định nhưng cả hai lần đều bị quân Tây Sơn chặn đứng. Thành Bình Định bị quân Tây Sơn bao vây chặt. Trước tình hình đó, ông và Võ Tánh sai người lén đem mật thư ra cho Nguyễn Ánh, khuyên vị chúa Nguyễn nên kéo quân ra đánh Phú Xuân sẽ dễ dàng giành được thắng lợi, vì đại bộ phận quân Tây Sơn đang bị thu hút ở mặt trận Bình Định, lực lượng ở Phú Xuân rất yếu, ông và Võ Tánh sẽ cố giữ thành nhằm cầm chân quân Tây Sơn. Nghe theo kế sách đó, Nguyễn Ánh cho quân tấn công và chiếm được Phú Xuân vào tháng 6/1801.
Hai tướng Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng nghe tin Phú Xuân mất về tay Nguyễn Ánh, liền chia quân ra cứu. Quân cứu viện Tây Sơn ra tới Quảng Nam thì bị quân chúa Nguyễn chặn đánh nên phải quay trở lại Bình Định. Không có cách nào khác, Trần Quang Diệu ra lệnh quân lính ráo riết công kích thành Bình Định. Trước nguy cơ thành bị thất thủ, có người khuyên Võ Tánh và Ngô Tùng Châu nên lẻn trốn ra ngoài, nhưng hai ông đã cự tuyệt, quyết ở lại với thành.
Để không bị quân Tây Sơn bắt, ngày 5/7/1801, Ngô Tùng Châu uống thuốc độc tự tử. Hai ngày sau, ngày 7/7/1801, Võ Tánh tiếp nối tự thiêu mà chết tại Lầu bát giác sau khi để lại bức thư tuyệt mênh.
Theo Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim, trước khi tuẫn tiết, hai ông để lại bức thư tuyệt mệnh với lời lẽ khảng khái gửi tướng Tây Sơn: “Phận ta làm chủ tướng, đành liều chết dưới cờ, còn các tướng sĩ không có tội gì nên đừng sát hại”. Trần Quang Diệu dẫn quân vào thành, xúc động trước cái chết đầy khí phách của hai vị tướng nhà Nguyễn nên cho quân lính khâm niệm, mai táng tử tế thi hài hai ông. Đồng thời vị tướng Tây Sơn này cũng không giết hại bất cứ người lính nào trong thành.
Năm 1802, sau khi đánh thắng nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long, Ngô Tùng Châu được triều đình truy tặng Tán trị công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Trụ quốc, Thái tử thái sư, Quận công, thụy Trung Ý. Năm 1831, vua Minh Mạng truy tặng ông Tá vận công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Hiệp biện đại học sĩ, Thiếu sư kiêm Thái tử thái sư, phong Ninh Hòa quận công, đổi tên thụy là Trung Mẫn; con cháu đời đời tập ấm.
Năm 1804, mộ Ngô Tùng Châu trong thành Bình Định được nhà Nguyễn cải táng về quê và xây thành lăng, tọa lạc tại Gò Tháp dưới chân dãy núi Bà thuộc thôn Thái Thuận, xã Cát Tài, huyện Phù Cát. Năm 1932, lăng bị một cơn bão tàn phá, sau đó được các nhân sĩ Bình Định tu sửa lại. Tuy nhiên sau do chiến tranh, lăng trở nên tiêu điều đổ nát, chỉ còn lại hai trụ cổng, bức bình phong và nền móng điện thờ. Năm 1969, Tỉnh đạo Cao đài Bình Định cùng với dòng họ Ngô địa phương xây dựng lại gọi là lăng Ninh Hòa quận công tự. Do vị trí khu lăng mộ cũ khi đó ở gần rừng, công tác an ninh lại không đảm bảo nên Tỉnh đạo Cao đài đã xin chính quyền địa phương cho xây tại địa điểm mới: khu Cầu Hiệu, thôn Thái Thuận, xã Cát Tài. Cụ Ngô Tùng Du, hậu duệ đời thứ 6 đại diện cho dòng họ đứng ra cùng Tỉnh đạo trông coi việc xây dựng lăng mộ. Trước đó, Hội đồng Gia tộc họ Ngô đã làm thủ tục hiến tặng 8 mẫu tự điền con cháu tập ấm cho Tỉnh đạo Cao đài. Sau năm 1975, khu lăng Ninh Hòa quận công tự được trưng dụng làm trụ sở Ủy ban nhân dân xã Cát Tài. Ngoài khu lăng mộ và nhà thờ tại quê hương, Ngô Tùng Châu còn được thờ ở Đình Trung, tọa lạc tại trung tâm thị xã Gò Công tỉnh Tiền Giang.
Ngô Tùng Châu và bà Võ Thị Lội có hai người con là Ngô Tùng Quang và Ngô Tùng Hòa. Tháng 6 năm 1784, trong lúc chiến tranh giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, cụ Ngô Tùng Trang cùng với con dâu và 2 cháu nội về quê làng Thái Định sinh sống. Năm 1789, cháu trưởng Ngô Tùng Quang bị bệnh mất, thứ tôn Ngô Tùng Hòa phụng tự ông bà, sinh con cháu nối nghiệp đến các đời sau.
Riêng bà Võ Thị Lội, sau khi Ngô Tùng Châu tuẫn tiết, bà thủ tiết thờ chồng và sinh sống tại quê chồng. Mỗi năm một lần, bà theo ghe bầu trở về Gò Công thăm bà con. Năm 1821, vua Minh Mạng ra lệnh cho quan Trấn thủ Bình Định cấp cho bà mỗi năm 50 quan tiền và 50 phương gạo. Năm 1838, bà mất, thọ 85 tuổi. Bài vị của bà đang được tộc Ngô thờ tự có ghi: “Võ húy Thị Lội sinh năm Giáp Tuất (1754), hưởng linh 85 tuổi, mất năm Mậu Tuất (1838), giờ Tuất, ngày 24 tháng 6. Mộ xây hướng Càn tốn kiêm Thìn tuất”. Mộ bà và mộ hai người con trai an táng kề nhau trong khu lăng Ngô Tùng Châu (khu lăng mộ cũ), được nhà Nguyễn cho xây kiên cố bằng vôi.
Ngô Xuân
(Thông tin tổng hợp từ Báo Bình Định, Báo Văn nghệ Tiền Giang và một số tài liệu liên quan khác).
(1) Theo Báo Bình Định, Cụ Ngô Tùng Thuật khi đó 83 tuổi, sinh sống ở thôn Thái Thuận, xã Cát Tài, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, là hậu duệ đời thứ 7 thuộc phái nhất của Ngô Tùng Châu. Cụ là người trực tiếp chăm sóc mộ phần và hương khói cho Ngô Tùng Châu cùng vợ và hai người con trai của Ngài. Cụ đang giữ hai bản sắc phong (bản dịch) của Ngô Tùng Châu, bài vị của bà phu nhân Võ Thị Lội, các cặp đối liễn của Thượng thư Bộ Binh Phạm Liệu, Đào Tấn, Đào Phan Duân, Hồ Sĩ Tạo, Lâm Tăng Sum, Đốc học Ngô Lê Tố và tư liệu dòng tộc ghi chép về thân thế sự nghiệp Ngô Tùng Châu.
(2) Theo Báo Văn nghệ Tiền Giang, khu vực mà cụ Ngô Tùng Trang khai khẩn nay thuộc xã Yên Luông, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Tại đây, còn địa danh Xóm Thủ với nghĩa là xóm có ông thủ khoa Ngô Tùng Châu đã từng sinh sống ở đó. Trước kia được gọi là xóm Ông Thủ, sau người ta gọi giản đi là Xóm Thủ.